CÂU
CHUYỆN NGÀNH TRÁNG
– Cung Giũ Nguyên
DUYÊN KHỞI
Tình cờ từ năm 1993, tôi
được hân hạnh quen với một số anh em, gọi là Bộ Tộc Kha Ho, và đã có cùng
nhau những cuộc du ngoạn và thăm viếng ngắn cũng như dài, trong tỉnh và
ngoài tỉnh. Có người đã nẩy ý nên dùng cơ hội để cùng nhau học hỏi thêm về giáo
dục thanh thiếu niên, về phương pháp Hướng Đạo bấy lâu nghe nói đến nhiều
nhưng không hiểu đúng bao nhiêu. Do đó mới có những buổi hội học, rất lý thú,
mỗi khi thì giờ nhàn rỗi cho phép, không nhất định là ở đâu. Trong nhà,
chung quanh bữa ăn thanh đạm, hay bất cứ nơi nào thuận tiện, nơi bờ biển, trên
thuyền lướt lên sông Lô, trên xe hơi chạy trên đường xuyên Việt, trong rừng âm
u của Bảo Lộc, bên Hồ Than Thở Đà Lạt, hay ban đêm nơi bờ sông An Cựu ở Huế,
nơi vườn dừa Ngọc Thảo, nơi một nhà tạm trống ở Thủy Lợi, Hộ Diêm, bên Biển Hồ
lộng lẩy của Pleiku… Đề tài thường được cho anh em biết trước, có khi có bản
hướng dẫn để tiện bề thảo luận.Tập tài liệu nầy được soạn lại, dựa trên các
buổi hội học ấy, với mục đích để cho các anh em có một bản văn lưu niệm, nhớ
lại những buổi sống bên nhau, hoặc tiện bề xem lại, và nếu có cơ
hội, áp dụng những gì đã học hỏi. Tập sách được chia làm hai
phần, một về những vấn đề của Tráng Sinh, một phần về những vấn đề của
Tráng Trưởng, cho Tráng Sinh muốn sau nầy trở thành Tráng Trưởng có thể biết
trước những điều kiện nào mình có thể đảm đương trách nhiệm. Ngược lại, các
Tráng Trưởng, vì đã là Tráng Sinh, và vẫn tiếp tục sống lý tưởng Tráng Sinh,
cũng cần ôn lại những gì đã biết, và với sự suy gẫm sâu sắc hơn, sẽ biết
đường lối nào để “say sưa dìu dắt đàn em “. Mặt khác lối phân những đề tài
như trên, muốn nhắc lại một điều thường không được lưu ý đúng mức, là
những nguyên lý, phương pháp và mục tiêu gom trong phần nhất, là những điều,
nếu theo đúng tinh thần của người sáng lập là, về nội dung, không thể bỏ bớt,
thay đổi hay bóp méo, huống hồ là chủ trương trái nghịch. Phần hai gồm
những đề tài thuộc về “tổ chức” phong trào, việc thay đổi tùy theo điều kiện
của thực tế chính trị, xã hội hay tùy theo khí hậu hay điều kiện kinh tế, có
thể sửa đổi tùy nghi. Cái mũ nỉ bốn u được thay thế bằng cái béret basque
hay mũ polo, hay nón lá, hay khăn vấn trên đầu (tôi nhớ mấy ông bạn Hướng Đạo
người Sikhs của tôi ở Ấn Độ), quần cụt thay quần dài hay váy (mấy Hướng Đạo Tô
Cách Lan mặc như thế đấy), không có gì trái nghịch với tinh hoa của Hướng Đạo,
cũng như lối chia toán hay tổ hay lấy tên nầy tên kia đặt cho những lễ lạc hay
bằng khả năng hay chuyên môn. Chúng ta không quên câu của Huân Tước Baden
Powell, “Lúc đầu chúng ta có một ý nghĩ, sau đó trở thành một lý tưởng; rồi một
phong trào; nếu các bạn trẻ không coi chừng trò chơi của chúng ta có thể chấm
dứt vì cái tổ chức.” Dịch một cách nôm na: Tốt mả có thể rã đám, nên tìm
cái chủ yếu, nội dung, đừng cãi nhau hay đánh nhau chỉ vì hình thức. Trong phần
thứ nhất, có những chương II, V, XII, quá dài so với những chương khác.
Xin đừng ngạc nhiên, chỉ vì đấy là ba chương chính của phong trào Hướng Đạo:
Hướng nhân vị, hướng cộng đồng, hướng tâm linh, đòi hỏi một sự quan tâm đặc
biệt hơn; những chương kia có thể xem là chi tiết của ba mục chính đó.Tiếp theo
hai phần của Tráng Sinh và của Tráng Trưởng, chúng tôi thêm một phần Phụ Lục,
gồm những tài liệu đọc thêm để “rộng đường tranh luận”.Nói chung, sách nầy có
thể để cho Tráng Sinh những bộ tộc khác tạm thời dùng, có đề tài, biết rồi hay
chưa biết, cũng nên suy gẫm thêm, liên quan nhiều hay ít đến việc chuẩn bị vào
đời của Tráng Sinh, cho Tráng Trưởng những gợi ý cho những câu chuyện dưới cờ,
hay sau lửa trại, và nếu Tráng Trưởng phải làm công việc huấn luyện viên, cho những
khóa đào tạo. Hướng Đạo là cuộc sống,lối sống không phải là sách vở hay bài
học. Nhưng Tráng Sinh cũng như Tráng Trưởng cần trang bị một số kiến thức vững
chắc, trước là về Hướng Đạo, sau về những vấn đề phổ thông liên quan đến cộng
đồng mà Tráng Sinh muốn phục vụ bây giờ và sau nầy. Chương trình các Tráng Đoàn
có trù tính việc thiết lập những hội học định kỳ, nhắm đến mục tiêu đó. Tập tài
liệu nầy nhắc đến những đề tài có thể đem vào chương trình sinh hoạt thứ hội
học ấy. Không thể đòi hỏi Tráng Trưởng phải hiểu biết tất cả vấn đề để thuyết
trình cho các đoàn viên, nhưng, như đã nhắc lại ở một nơi khác, Tráng Đoàn, nếu
có cơ hội, nên mời những nhà chuyên môn ngoài phong trào, điều khiển những buổi
hội học liên quan đến sở trường của họ, để bảo đảm chất lượng cho việc học hỏi
của Tráng Sinh. Chúng tôi hy vọng có Trưởng thấy thiếu sót hay sai lầm
trong tập nầy và tìm ra duyên khởi cho những nghiên cứu đầy đủ hơn
nữa, phù hợp với sự đòi hỏi của Tráng Sinh mà trình độ văn hóa, với thời gian,
nhất định phải cao hơn nhiều.
Chúng tôi không quên ghi
nơi đây sự biết ơn những anh chị em trong Bộ Tộc Kha Ho, đã hiến cơ hội, đóng
góp ý kiến và tài liệu cho chúng tôi thực hiện được tập sách nầy.
Nha Trang, ngày 15 tháng 6,
1998.
Cung Giũ
Nguyên
HƯỚNG ĐẠO LÀ GÌ?
Nguyên lý – Phương pháp – Mục
tiêu
Dùng châm ngôn của ba ngành
chính của Hướng Đạo nối lại, có thể thấy dưới một hình thức ngắn gọn, mục đích
của giáo dục Hướng Đạo đề nghị cho các bạn trẻ là: Gắng sức – Sắp
sẵn – Giúp ích.
ĐỊNH NGHĨA HƯỚNG ĐẠO
1. Định nghĩa theo các từ điển
Những từ điển tiếng Pháp
(Larousse, Robert…), tiếng Anh (Webster, Oxford..) đều có ghi định nghĩa
từ chúng ta gọi là “Hướng Đạo”, dưới đề mục scoutisme, scouting,
hay scout, hay boy-scout, đại khái là “Phong trào giáo dục bổ sung cho
gia đình và học đường xây dựng trẻ về đủ phương diện nhờ những trò chơi ngoài
trời, phong trào giáo dục được Huân Tước Baden Powell, người Anh, (1857-1941)
sáng lập”.
Tương đối đầy đủ hơn hết có lẽ là những ghi chú của từ điển Pháp Le
Petitt Robert 1, ấn bản 1990:
scoutisme = n.m. (1924;
de scout) Mouvement éducatif destiné à compléter la formation que
l’enfant reçoit dans la famille et à l’école, en offrant aux jeunes des
activités de plein air et des jeux.
scout, e = n.m. et
adj. (1922 ; angl. boy-scout) N.m. Enfant, adolescent , faisant partie
d’un mouvement de scoutisme. V, boy-scout (vieilli) louveteau, routier ;
guide. – Adj : Propre aux scouts, au scoutisme. – Fig. Avoir un
côté scout. V. boy-scout “ On est en pleine civilisation scoute”
(Barthes).(Ta đang ở trong văn minh hoàn toàn Hướng đạo).
boy-scout = 1910,
mot anglais “garçon éclaireur., Vieilli, Scout . Fig. Fam = Idéaliste naĩf
: Người lý tưởng ngây thơ.
louveteau = scout
de moins de douze ans.
guide = jeune fille
appartenant à un mouvement féminin de scoutisme.
Từ điển Bách Khoa The Grolier
Multimedia Encyclopedia, 1996, khá hơn nữa khi nói về Scouting,
giải thích: Một phong trào thế giới của những nhóm trẻ mà mục tiêu là giúp cho
thiếu niên và thiếu nữ phát triển tánh khí, tinh thần công dân, thể lực và tâm
trí bằng cách huấn luyện thành viên qua những hoạt động ngoài trời,
rèn luyện khả năng tháo vát và khuyến khích giúp ích cộng đồng. Nhiều
quốc gia có tổ chức Hướng Đạo, và số Hướng Đạo Sinh nam nữ trên thế giới lên
đến nhiều triệu người.
Rất tiếc, những định nghĩa công
phu trên không nói hết những đặc điểm của phong trào Hướng Đạo, để cho thấy
phong trào ấy có những gì dặc â biệt, không giống những phong trào thanh niên
hay giáo dục khác trên thế giới.
Muốn hiểu rõ Hướng Đạo là gì,
cần phải biết những nguyên lý, phương pháp, mục tiêu của Hướng Đạo. Về điểm
nầy, không gì tốt hơn là dựa vào những tuyên bố chánh thức của tổ chức Hướng
Đạo Thế Giới, là định chế có bổn phận hơn ai hết vạch rõ đường lối của Hướng
Đạo, đúng theo tinh thần của người sáng lập, được nhận thấy qua những tác phẩm
chính yếu của Baden Powell, như Aids to Scoutmastership, Scouting for
boys, The Wolf Cubs Handbook, Rovering to Success…
2 – Định nghĩa theo Hiến Chương
Tổ Chức Hướng Đạo Thế Giới:
Phong trào Hướng Đạo là một phong trào giáo dục thanh thiếu niên, đặt căn bản
trên sự tự nguyện, đó là một phong trào có tánh cách không chính trị, mở ra cho
mọi người, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc hay tín ngưỡng, thể theo mục
đích, nguyên tắc và phương pháp do vị sáng lập phong trào đề xướng và
trình bày sau đây.
MỤC ĐÍCH
Phong trào Hướng Đạo có mục
đích góp phần vào việc phát triển thanh thiếu niên bằng cách giúp họ phát huy
toàn vïẹn các khả năng về thể chất, trí tuệ, xã hội và tinh thần, trên cương vị
cá nhân, trên cương vị công dân có tinh thần trách nhiệm, và trên cương vị
thành viên các cộng đồng địa phương, quốc gia và quốc tế.
NGUYÊN TẮC
Phong trào Hướng Đạo đặt nền
tảng trên các nguyên tắc sau đây :
1. Bổn phận đối với Thượng Đế –
Tuân theo những nguyên tắc tinh thần, trung thành với tôn giáo thể hiện các
nguyên tắc đó, và chấp nhận những bổn phận phát sinh từ đó.
2 Bổn phận đối với tha
nhân – Trung tín với đất nước trong chiều hướng phát huy hòa bình, sự cảm thông
và hợp tác trên các lãnh vực địa phương, quốc gia và quốc tế. Tham gia
vào việc phát triển xã hội trong sự tôn trọng phẩm giá con người và toàn vẹn
của thiên nhiên.
3
Bổn phận đối với chính mình – Nhận trách nhiệm về sự phát triển
của chính bản thân.
4
PHƯƠNG PHÁP
Phương pháp Hướng Đạo là một hệ
thống tự giáo dục tuần tự dựa trên
l Lời hứa và Luật Hướng
Đạo
2 Học bằng hành động
3 Sinh hoạt từng nhóm nhỏ = Hay phép hằng đội.
Những phương pháp không được
ghi rõ ràng trong hiến chương, nhưng vẫn được xem là phương pháp để đạt những
mục tiêu nói ở trên.
1 Trò chơi
2. Hoạt động ngoài trời, gần gũi với thiên nhiên
3. Trẻ dạy trẻ, với sự giúp đở của người lớn
4. Giáo dục từng trẻ một
5 Hệ thống đẳng cấp và chuyên hiệu
Các nguyên lý căn bản có thể
quy về ba mục tiêu chính của phong trào giáo dục Hướng Đạo theo Baden Powell:
1 – xây dựng nhân
vị
2- Trau dồi ý thức về tha nhân,
về cộng đồng, đưa đến tinh thần giúp ích, phục vụ vô vụ lợi
3- Đời sống tâm linh phong phú,
cũng cố đức tin, sống đầy đủ theo tôn giáo đã chọn.
Nói gọn, giáo dục theo Hướng
Đạo đề nghị xây dựng trẻ (thanh thiếu niên) theo ba hướng rõ ràng : Hướng nhân
vị, hướng cộng đồng, hướng tâm linh.
--------------------------------------------------------------------------------------------
CÂU
CHUYỆN NGÀNH TRÁNG
Cung
Giũ Nguyên
ĐẶC ĐIỂM GIÁO DỤC HƯỚNG
ĐẠO
Giáo dục Hướng Đạo là
một giáo dục bổ sung.
Đặc điểm nầy, chính những người
điều khiển Hội hay Đoàn Hướng Đạo cũng thường hay quên, và hành động không đúng
với vị trí của mình, sinh ra tự kiêu tự mãn, tưởng chỉ có mình mới lo cho trẻ,
dẫm lên quyền của gia đình, của giáo hội trong việc xây dựng trẻ. Giáo dục của
Hướng Đạo không thể nào mâu thuẫn với giáo dục gia đình, giáo dục học
đường, giáo dục tôn giáo được. Nếu đã có đối chọi, tất nhiên gia đình không thể
nào giao con cái mình cho các Trưởng Hướng Đạo, và các giáo hội cũng không thể
công nhận là đoàn Hướng Đạo đã góp phần rất hiệu quả trong việc giáo dục theo
đường lối của tôn giáo. Tuy mục đích của Hướng Đạo là xây dựng mọi khía cạnh
của một nhân cách, hay nhân vị, Hướng Đạo không thể xem là mình có ưu vị trên
những tác nhân giáo dục khác, hoặc làm cho trẻ không cần đến sự giúp đỡû của
những nhóm xã hội mà trẻ một cách tự nhiên, hay tùy theo giai đoạn phát triển,
phai tham gia hoạt động và tiếp thu sự giúp đỡ hay dạy bảo của gia đình, trường
học, lớp giáo lý, hay công đoàn, nghiệp đoàn, khi thanh niên đã có
nghề nghiệp, vân vân.. Tất nhiên, không tránh được xung đột – thường là giữa
những cá nhân không hạp tuổi, hay cư xử vụng về, hay vì những quyền lợi riêng
tư nào đó – nhưng không thể có mâu thuẫn về nguyên lý, mục đích
phương pháp giáo dục của các phía. Rắc rối nhất là khi mâu thuẫn giữa những cá
nhân lại ngấm ngầm – không với cha mẹ của trẻ (vì cho đến tuổi Tráng Sinh,
những thiếu niên muốn gia nhập Hướng Đạo phải có sự đồng ý của cha mẹ, nhưng
thường là với thầy giáo, hay với những nhà lãnh đạo tinh thần, vì e ngại giảm
bớt hay làm mất uy quyền (thường được quan niệm là tuyệt đối) đối với trẻ. Lý
tưởng là những trưởng đơn vị Hướng Đạo có những quan hệ tốt đẹp với những người
hay đoàn thể cũng làm một việc như mình là xây dựng trẻ (đó cũng là một điểm
trong chương trình đào tạo các trưởng đơn vị Hướng Đạo).
Một sự trình bày hay phổ biến
những nguyên lý, phương pháp và mục tiêu của phong trào Hướng Đạo, cũng như
thái độ khiêm tốn và việc làm đúng nhiệm vụ của Trưởng có thể tạo không khí
thông cảm và xây dựng có lợi cho mục đích được theo đuổi, là đem lợi ích cho
chính trẻ.
Giáo dục Hướng Đạo cho
những trẻ tự nguyện.
Nếu giáo dục gia đình có thể
xem như là một giáo dục cưỡng chế, con cái nhất định phải nghe theo lời cha mẹ,
dù muốn dù không, giáo dục Hướng Đạo lại liên quan đến những trẻ tự nguyện, tự
do đến với phong trào, chấp nhận sự dạy dỗ hay huấn luyện theo luật lệ, phương
pháp nhất định. Như vậy giáo dục Hướng Đạo khác với những tổ chức giáo dục khác
bắt buộc trẻ phải gia nhập (Ví dụ, trong trường học, khi mọi học sinh đều phải
theo hoạt động của lớp, dù muốn dù không, hay thanh niên phải tham gia việc học
tập được tổ chức chung cho những thiếu niên hay thanh niên cùng lứa tuổi).
Một mặt khác, nên hiểu trẻ tự ý
xin vào đoàn Hướng Đạo không có nghĩa là Hướng Đạo có quyền vào đoàn.
Việc trẻ (chữ trẻ thường được dùng trong Hướng Đạo để chỉ những thanh thiếu
niên chịu giáo dục theo Hướng Đạo) xin vào là một chuyện, việc nhận hay không
là tùy theo trẻ có thoả mãn các điều kiện định trong nội quy và điều lệ
của hội.
Tất nhiên trẻ không thể xem
Hướng Đạo như một câu lạc bộ hay trung tâm giải trí, và có thể lựa chọn những
trò chơi mình thích, và từ chối những hoạt động khác không hợp với sở thích hay
khả năng. Trẻ vào đoàn lại càng không được tự ý giải thích những
luật lệ theo quan điểm riêng của mình hay của gia đình mình. Cũng như bất cứ
trò chơi nào, cũng có luật. Người muốn chơi trò chơi ấy có thể đề nghị sửa đổi,
thêm bớt những gì trong nội quy hay điều lệ, quyết định về thay đổi xét ra cần
thiết là do thẩm quyền của Đại Hội Đồng của Hội; đó là thuộc về những điểm
không còn thích hợp trong tổ chức, và không có việc một trẻ có thể yêu cầu sửa
đổi hay bỏ bớt những nguyên lý hay mục đích của cả phong trào. Khi có mâu thuẫn
giữa trẻ với phong trào, chỉ có lối giải quyết duy nhất và đương nhiên, là trẻ
ra khỏi phong trào một cách tự do như trẻ đã xin vào, Nơi đây, chúng ta cũng
biết, phong trào không chủ trương và cũng chẳng có quyền nào bắt buộc một trẻ
phải tiếp tục ở trong Hội khi trẻ đã không muốn. Hướng Đạo trọng tự do
của trẻ vì xem trẻ như là một nhân vị.
Giáo dục Hướng Đạo chú trọng
đến giáo dục cho từng trẻ một.
Nghĩa là xây dựng mỗi trẻ
từ “vốn” hay “thực tại” của trẻ. Giáo dục Hướng Đạo về phương diện nầy,
rỏ ràng không phải là một phong trào quần chúng, huấn luyện một số đông trẻ
theo một mẫu bình quân nào đó, vì Hướng Đạo không nhắm thành công
bên ngoài của đơn vị, liên đoàn hay Hội, mà chú tâm đến tiến thân của từng trẻ
một. Sự cố gắng của các trẻ không thể đồng đều, vì mỗi trẻ có thực trạng
thể xác, tri giác, trí tuệ, khác nhau. Vì lẽ đó, mà các trưởng đơn vị Hướng Đạo
được khuyến khích biết rõ tâm tính, tình cành gia đình, đời sống kinh tế hay
tình cảm của từng trẻ một để, từ những mặt đẹp và chưa đẹp, tìm ra những phương
cách giúp tối đa mỗi trẻ giài quyết những vấn đề, theo thực lực của mình.
Chương trình huấn luyện hay
giáo dục của trẻ, theo Hướng Đạo, cũng như những ràng buộc có vẻ khó khăn, tuy
dưới những dạng trò chơi, thử thách trẻ được tiếp diễn thường xuyên, và không
phải bất cứ trẻ nào trong thực tế là như vậy, cũng có thể theo đúng luật của
trò chơi Hướng đạo, và sống lâu dài lý tưởng Hướng Đạo.
Giáo dục Hướng Đạo gián tiếp
đào tạo cho xã hội những công dân hữu ích.
Vì những đòi hỏi có phần gắt
gao của các sinh hoạt, giáo dục Hướng Đạo giúp trẻ, sau nầy trở nên những người
có tinh thần trách nhiệm, có khả năng chuyên môn không chỉ để đảm đương nghề
nghiệp mình chọn, mà còn có tinh thần giúp ích cho cộng đồng. Ngoài ra, giáo
dục đào tạo những trẻ biết chỉ huy biết tổ chức cuộc sống của toán, đoàn, và
như thế, dễ dàng đảm đương tốt những công việc chỉ huy trong nhiều địa hạt xã
hội. Giáo dục Hướng Đạo ước mong đào tạo những thành phần thượng lưu – không
phải theo nghĩa phân chia cấp trên, cấp dưới, mà theo nghĩa ganh đua, thi tài,
cầu tiến -. Đã có nhiều bằng chứng thanh niên Hướng Đạo tại nhiều nước Âu Tây
và ngay ở Việt Nam thường được các xí nghiệp cũng như cơ quan chính phủ,
lựa chọn (người đã là Hướng Đạo) để giao những công việc quan trọng,
vì họ xem danh từ “Hướng Đạo” như là một thứ bảo đảm về đức hạnh, về tinh
thần trách nhiệm, về trung hậu, về tài chỉ huy và tổ chức.
Tuy nhiên, giáo dục Hướng Đạo
trên cơ bản là giáo dục trẻ cho ích lợi của chính trẻ.
Giáo dục Hướng Đạo nhắm
ích lợi cho chính trẻ.
Trẻ trở nên người con có hiếu,
người lao động lành nghề và có lương tâm, hay một công dân tốt phục vụ cho đồng
bào và khi cần hy sinh cho tổ quốc, là vì khi giáo dục được hoàn chỉnh, những ý
hướng tốt đẹp về tha nhân về cộng đồng, là điều thiết yếu cho hạnh phúc của trẻ
đã trưởng thành, nhưng giáo dục Hướng đạo, khác với những tổ chức thanh niên
khác, không hướng mục có lợi cho một cá nhân, một tổ chức, một đảng phái nào,
kể cả phong trào Hướng đạo, mà trẻ có thể phục vụ khi thấy hợp với sở thích và
khả năng của mình. Nguyên tắc trên thường bị hiểu lầm, Hướng Đạo được gán cho
là khuyến khích cá nhân chủ nghĩa hay thái độ cường lương đối với cha mẹ, hay
thầy giáo, hoặc cho là vô chính phủ. Thực tế thì quan niệm xem trẻ cũng là nhân
vị, có giá trị riêng, có tự do riêng, và có trách nhiệm về số phận của mình, là
một quan niệm khác lạ trong những xã hội có truyền thống hay những
chế độ toàn trị, xem cá nhân không đáng kể, tập thể mới quan trọng hơn, và cá
nhân chỉ là một vật, một công cụ để tập thể sử dụng tùy nghi; một cá nhân phải
hy sinh mọi quyền con người, hy sinh hạnh phúc riêng của mình để chuyên
lo quyền lợi tối cao của đoàn thể hay tập thể mà cá nhân là thành phần.
Tổ chức Hướng Đạo có đặc
tính phi chính trị.
Phi chính trị, không có nghĩa
như có một số người hiểu, hay gán cho, là vô chính phủ hay chống chính phủ, và
cứ theo lập luận buồn cười ấy, còn là “khuynh đảo” nữa. Chưa bao giờ ở các nước
trên thế giới có phong trào Hướng Đạo lại nghe thứ giải thích ấy, hay nhận thấy
có những hiện tượng lạ lùng ấy; trái lại chính phủ những quốc gia ấy thường
khuyến khích và tài trợ cho các đoàn thể hướng đạo, vì sự phát triển của chúng
có ích lợi chung.
Tính cách phi chính trị của
Hướng Đạo nghĩa là phong trào không thể hoạt động dưới chiêu bài của một đảng
phái chính trị nào, cũng không thể do một chính đảng lập ra để phục vụ,
tuyên truyền, cổ động, đề cao đảng phái ấy. Trong truyền thống Hướng đạo, kể cả
Hướng Đạo Việt Nam, một Trưởng Hướng Đạo có quyền cá nhân thuộc một đảng phái
chính trị; nhưng khi điều khiển đoàn, Trưởng sẽ hoạt động như một trưởng Hướng
Đạo thuần túy, vì theo lời hứa trung thành, Đoàn Trưởng không lợi dụng vị
trí mình để tuyên truyền cho chính đảng của mình (cũng như thầy giáo vào lớp
học, không thể làm công việc chiêu mộ thêm đảng viên theo chính kiến của riêng
mình). Khi thấy vì lẽ nầy lẽ khác, mình nên hoạt động chính trị hơn là làm
Trưởng Hướng đạo, nếu còn biết điều (để khỏi nói là còn liêm sỉ) sẽ xin nghỉ,
tạm thời hay vĩnh viễn, không nhận trách nhiệm nào trong Hướng Đạo nữa. (Thời
“loạn danh” đã có người khoe khoang là chỉ vào Hướng Đạo để “dò la cho
Đảng”. Cái mà người tự trọng gọi là vô liêm sỉ hay phi Hướng Đạo, ở chỗ
khác lại trở thành một thành tích vẻ vang đầy “danh dự”)
Về tổ chức, một Hội Hướng Đạo
trên thế giới, là một hội tư nhân, phi chính phủ (cũng như ta nghe nói có những
xí nghiệp, hay tổ chức phi chính phủ), không có nghỉa là vô chính phủ, mà là
hội có tánh cách độc lập (độc lập không có nghĩa là đối lập), không phải do
chính phủ lập ra. Việc điều hành, hành chánh, tài chánh, tài sản, nhân
viên, là do hội hoàn toàn định đoạt , đảm nhận; không có sự can thiệp của chính
phủ trong việc sử dụng hay tiếp nhận tài chánh, hay bổ nhiệm hoặc kiểm soát việc
bổ nhiệm những hội đồng quản trị, bộ tổng ủy viên hay những trưởng đơn vị. Thể
thức bổ nhiệm, định đoạt quyền hạn và nghĩa vụ, đều do Hội ấn định và thi hành,
qua những kỳ họp định kỳ của Đại Hội Đồng, Ban Thường Vụ hay Bộ Tổng Ủy
Viên, chiếu theo những điều lệ và nội quy, những văn kiện pháp luật nầy
khi ghi danh ký lập hội, có thể tuỳ theo quốc gia, nạp cho cơ quan hữu trách,
hoặc được cơ quan chính phủ duyệt y trước khi thi hành. Tại những quốc gia có
tự do hội họp, điều kiện sau không mấy nơi đòi hỏi.
Giáo dục Hướng Đạo lo
cho từng trẻ một.
Đặc điểm nầy phân biệt những
phong trào như Hướng Đạo với những phong trào huấn luyện tập thể thanh thiếu
niên, mà số hội viên có thể lên hằng vạn hay hằng triệu. Vì trong thật
tế, Hướng Đạo không thể đào tạo đủ Trưởng để nghĩ đến việc phổ biến phương pháp
giáo dục của mình cho tất cả thanh thiếu niên một trường học, một quận
huyện, nói chi cho tất cả thanh thiếu niên của nước. Hướng Đạo như vậy,
chấp nhận mình không phải là một phong trào quần chúng, và ích lợi của mình
không phải là cho đại chúng (nếu những danh từ ấy được hiểu theo ý lượng số).
Một trưởng đơn vị Hướng Đạo chỉ chịu trách nhiệm tối đa về 36 em Sói (nếu là Ấu
Đoàn), 32 Thiếu Sinh (cho Thiếu Đoàn) hay 40 Tráng Sinh (một Tráng Đoàn). Nếu
thử làm một bài tính cho 400.000 thanh thiếu niên của một thành phố lớn, hay
một tỉnh, Hướng Đạo phải có 10.000 Trưởng, trong khi đó cả một Hội Hướng Đạo
Trung Kỳ thời hưng thịnh, số trưởng đủ tư cách điều khiển đơn vị và được công
nhận như thế không quá 100 người. (Con số ước đoán ấy có thể cao hơn nhiều con
số thực tế; những tài liệu của Hội, nếu còn, có thể chứng minh hay đính chính
điều ấy.) Một huấn luyện viên thể dục, với một cái tu-huýt và vài tiếng la, có
thể điều khiển một lần một trăm vận động viên, và với máy
phóng thanh cực mạnh như ngày nay, có thể điều khiển hằng nghìn hằng vạn người
làm những cử động ăn nhịp. Một trưởng Hướng Đạo điều khiển ba bốn mươi người,
và trong thật tế nếu áp dụng đúng phép hằng đội chỉ chi phối trực tiếp bốn hay
tám đoàn viên. Đưa chi tiết trên để cho thấy, một trưởng Hướng Đạo có dụng ý
làm việc cho đảng phái, có giỏi lắm cũng không “ câu” được bao nhiêu đảng viên,
mà trong chính trường của một nước dân chủ đại nghị, con số (nghĩa là cử
tri hay lá phiếu) mới quan trọng. Một tính toán sai lầm nữa, là khi tưởng
“chiêu hồi” được một trưởng Hướng Đạo, thì “đàn em” của Trưởng ấy mặc nhiên
cũng theo. Điều này không xảy ra trong thực tế vì lẽ trong phong trào Hướng
Đạo, không tôn sùng lãnh tụ hay tôn thờ cá nhân. Những đoàn viên Hướng Đạo đều
là tự nguyện, và được huấn luyện về tánh khí, biết nói không khi mệnh
lệnh hay đòi hỏi có vẻ “trái cẳng ngỗng” với tôn chỉ Hướng Đạo. Chúng ta cũng
biết có những chính quyền trọng dụng những Trưởng Hướng đạo, nhưng chỉ vì những
Trưởng ấy có tư cách đảm đương nhiệm vụ, không phải với tư cách Trưởng để lôi
cuốn những đoàn viên thuộc hạ.
Những tráng sinh nào có đọc
quyển The Jungle Book của Ruydard Kipling, hay xem phim hoạt họa Cậu Bé
Rừng Xanh của Walt Disney dựng theo quyển truyện trên, cũng nhớ “Trưởng” Gấu
Baloo dạy Mowgli thế nào, và nhắc lại chúng ta bài về nguyên tắc giáo dục chính
của Hướng Đạo (là dạy lợi ích cho trẻ vì lợi ích của trẻ). Mặc dầu Mowgli tha
thiết muốn theo gương gấu và trở thành một gấu con để ở lại luôn trong rừng,
Baloo nhất định từ chối, mặc dù ước vọng của cậu bé không khỏi làm cho Baloo
hãnh diện về mình và giống gấu của mình, Baloo nhất quyết phải đưa Mowgli trở
về làng, để sống với những người như Mowgli. Baloo dạy Mowgli triết lý và khả
năng để bảo vệ sự sống, những gì cần thiết cho bất cứ con vật nào, nhưng
Mowgli áp dụng những điều đó để lớn lên từ “ thực tế của chính mình”, nghĩa là
trở nên con người thể hiện được số phận của riêng mình. Trong Hướng Đạo
cũng thế, Trưởng không góp phần xây dựng trẻ, không phải để trẻ trở thành
“giống như mình”, “một giống với mình”, mà trở nên “người tự lập”, một “người
tự lập vững mạnh hơn”, để trở về làng, nó có thể sống hay làm được gì tốt đẹp,
đó là tự do của nó. Một thanh niên vào phong trào Hướng Đạo để có sự giúp đỡ để
xây dựng mình, nhưng đến một tuổi nào đó (bấy lâu theo điều lệ là vào tuổi 25),
Tráng Sinh thu thập được gì hay không, cũng phải từ giã, trở về với đời
sống con người trong xã hội bình thường. Ngoại trừ một số rất ít lưu lại phong
trào để làm huynh trưởng, tự nguyện phục vụ những trẻ khác, trong một thời gian
nhất định, mục đích của Tráng Đoàn không phải là giữ mãi những thanh niên làm “
tráng sinh” vĩnh viễn, như Rừng Xanh đòi hỏi Mowgli mãi mãi theo Baloo,
hay trở nên một Baloo khác, mà phải trở lại với đời của chính mình trong xã hội
thật của mình . Ngụ ý của Kipling đã có ảnh hưởng nhiều đến quan niệm của Baden
Powell khi thử nghiệm trò chơi Hướng Đạo thường không được lưu ý và áp dụng
đúng mức.
Như vậy giáo dục Hướng Đạo
trong thật tế chỉ có thể lo cho một số ít thanh thiếu niên, vì nguyên tắc của
giáo dục ấy đòi hỏi Trưởng lo cho từng trẻ một, không theo một mẫu chung, có
thể áp dụng cho bất cứ trẻ nào, mà dựa vào “ thực tại” thể xác, tính tình, trí
tuệ… để giúp trẻ khá hơn, mỗi ngày mỗi khá hơn. Ngoài thành tích và tiến bộ
nhất định để một trẻ có thể tuyên lời hứa và mặc đồng phục Hướng Đạo,
chương trình tu thân của trẻ rất đa dạng, và không bao giờ có tánh cách cưỡng
chế qua hệ thống đẳng cấp và chuyên hiệu, Hướng Đạo Sinh được khuyến khích thử
thách môi tiềm năng của mình.
Không có vấn đề kỳ thị
Hướng Đạo giáo dục trẻ theo
những phương pháp với những mục tiêu nhất định; những ràng buộc về điều kiện
sức khỏe, tu thân, hướng tâm linh. Tất nhiên, một số không ít trẻ cảm
thấy khó khăn sống theo một lý tưởng như vậy. Điều đó nhất định không có nghĩa
là Hướng Đạo có tánh cách phân biệt đối xử. Từ trại đầu tiên ở đảo Brownsea
(Anh Quốc), Huân Tước Baden Powell, người sáng lập phong trào đã thử quy
tụ những trẻ giai cấp xã hội khác nhau, và thấy những trẻ, dù cho có truyền
thống nghèo giàu khác nhau cũng không bị ảnh hưởng của phong tục đương thời.
Nhân đó, mới có điều luật thứ tư trong Luật Hướng Đạo chủ trương một Hướng Đạo
Sinh là bạn của mọi người và anh em với những Hướng Đạo Sinh khác.
Hướng Đạo muốn đem đến cho rất
nhiều trẻ lối sinh hoạt vui và ích của mình, nhưng không thể vì muốn có số
đông, mà phải hạ thấp những tiêu chuẩn vốn có để vừa lòng tất cả mọi người,
nhất là không thể bỏ bớt một vài điều trong Luật hay Lời Hứa, cũng như về
phương pháp hay mục đích. Điều càng không thể chấp nhận và thực hiện được, nếu
như phong trào vẫn muốn dùng nhãn hiệu Scouting hay Hướng Đạo, là
kết hợp trong cùng một đoàn hay một Hội, những hướng tâm linh với duy vật,
hay hướng tha nhân với hướng vị kỷ, hay hướng tu thân với hướng tự do
sinh sống, hay xóa bỏ mục tiêu giáo dục mà chỉ chú trọng đến phần giải
trí, vân vân.
Nói thêm một chút về
binh đẳng
Trẻ nào cũng có quyền như nhau,
nhưng không trẻ nào giống trẻ nào. Một quan niệm sai lầm và cũng đang còn tồn
tại trong công luận là quan niệm bình đẳng. Có thứ bình đẳng hóa ở bậc
dưới (như chúng ta đã nói rồi), cũng có ý nghỉ bình đẳng hóa ở trên cao, đây là
một đường hướng cho sự phát triển con người. Nhưng vào thời của
Schoelcher, người đã chết cho bình đẳng, cũng như thời Calliclès, mà không biết
bình đẳng là cái gì. Bình đẳng là một khái niệm hữu thể luận và pháp luật. Nó
chẳng có giá trị khoa học, hay ít ra người ta cũng không tìm ra một diễn tả
khoa học đúng đắn nào về bình đẳng giửa những con người. Trái lại, các
khoa học càng ngày càng không thích nói đến chuyện bình đẳng ấy. Thời mà người
ta phân biệt dễ dàng hồn với xác, khi không biết gì mấy về cơ thể, càng dễ nói
đến hơn. Ngày nay những nhà khoa học bắt đầu biết ít nhiều về cơ thể,
nhưng ngoài ra chưa biết gì khác. Mà cái biết ấy không phân chia đồng đều cho
những con người. “Có người cao người thấp, có người mập người gầy, có
người mạnh người yếu.” Nếu muốn bình quân hoá hay bình đẳng hóa, thì sự bất
bình đẳng về sinh vật học sẽ ngăn chận. Cần gì đưa lượt cho người
trọc đầu, hay cần gì máy truyền hình cho người mù ? Dưới ánh sáng của khoa học
ngày nay, những tật nguyền và những bất bình thường sinh lý làm nên toàn thể cá
nhân. Thái độ cho đến tuổi thọ cũng đã được những gien ấn định trước rồi. Mà
vốn di truyền đâu có đồng đều giữa những người.
Người ta thường nghĩ đến bình
đẳng như nói đến một sự bày đặt pháp lý, như cho bao nhiêu, 18, 21, đúng mười
hai giờ khuya, là tuổi trưởng thành, về điểm nầy, mỗi nước lại có ý khác
nhau. Vậy có nên thử sắp chuyện bình đẳng giữa những con người như là một
trong những chuyện bịa đặt tư pháp, Có người sẽ la lên; không chỉ có Luật, mà
mọi người đều tin như vậy, mặc dù biết là những thể xác và những tinh thần
chẳng ngang nhau chút nào. Không có những ý tưởng nào như ý bình đẳng mà có
nhiều bậc thánh, nhà thần thị, những tử vì đạo (trừ ra ý tưởng tự do thường hay
lẫn lộn với ý bình đẳng trong phạm vi pháp lý về khả năng)
Aurel David phỏng đoán rằng một
nhà hiền triết từ trên Sao Hỏa xuống, không có những tập quán của những người
Tây phương, có thể nói : “Vì các ông nghĩ là những con người bình đẳng, vì cái
vùng M, cơ thể, một phần tinh thần, những của cải do máy làm ra, vân vân.. là
bất bình đẳng. Là vì con người ở nơi khác, nơi cái vùng A chẳng phải là
thể xác, chẳng phải là tinh thần nô lệ hóa, chẳng phải của cải. Chỉ còn phần
còn lại nầy sẽ đồng nhất từ cá nhân nầy qua cá nhân khác. Và vì chỉ chừng
đó đủ cho các ông lập bình đẳng giữa những con người, thì phần A còn lại chỉ
mới là nhân tính và làm thành toàn thể con người. Các ông thú nhận không biết
con người trong toàn thể. Như vậy nó có thể chứa một thành phần A chủ yếu và
đến nay chưa được biết, đồng nhất nơi mọi cá nhân.”
Những bất bình đẳng vật lý hay
tri thức có khi quan trọng đến nỗi Luật không thể nhắm mắt lại trước chúng.
Thật sự có những nhân vị “ nhỏ hơn” mà tài sản thể xác không đầy đủ hay ở trong
tình trạng không tốt. Chúng làm thành giai cấp pháp lý của hạng bất lực: Dưới
tuổi trưởng thành, điên khùng, tội phạm. Vấn đề thiếu khả năng của người
nước ngoài, hay phụ nữ, hay nô lệ thuộc một loại ý tưởng khác,đó chẳng qua là
sự áp bức của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, của đám đông đối với kẻ lẻ loi, không
phải là một sự bất bình đẳng theo định chế.
Nhưng nơi trẻ con và những
người điên khùng, bất bình đẳng sinh lý có rõ ràng. Đó có phải là giai cấp hay
chủng tộc thấp kém “nhỏ hơn” không ? Vì chính nơi đó mới thấy bất bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhân cách pháp lý chỉ là một giá áo nơi đó người
ta móc những quyền. Vì tư cách của những kẻ bất lực cho phép móc ít quyền, cái
giá áo phải nhỏ hơn. Người ta không thể cho một đứa trẻ phép lái xe hơi, cho
một bệnh nhân tim mạch lái máy bay, hay để cho một người i-tờ kiểm phiếu
bầu cử hay lo về kinh tế quốc gia.
Tóm tắt
Nói tóm lại, phong trào
Hướng Đạo Thế Giới – tồn tại đã gần một thế kỷ nay – có tham vọng đóng góp vào
công việc xây dựng những thế hệ mai sau, trong một tinh thần lạc quan yêu
đời, chuẩn bị trẻ về mọi phương diện: Thể xác, tri thức, nghề nghiệp, tinh
thần, để trẻ có thể trở nên những người hữu ích cho cộng đồng, từ những cộng
đồng nhỏ bé, như gia đình, làng mạc, cho đến những cộng đồng rộng lớn như quốc
gia đất nước, hay thế giới, tùy theo khả năng đích thực của các thanh thiếu
niên nay đã trưởng thành và tùy theo những cơ hội quý giá mà những cộng
đồng hiến cho những con người đã được xây dựng trong tinh thần giúp
ích vô vụ lợi, với ý thức trách nhiệm cao về nhiệm vụ, và ý chí sắp
đặt cuộc đời theo những giá trị cao cả nhất.
CÂU
CHUYỆN NGÀNH TRÁNG – Cung Giũ Nguyên
HƯỚNG NHÂN VỊ
LÝ TƯỞNG TU THÂN VÀ GIÚP
ÍCH
1 – Ý niệm về nhân vị
Phong trào Hướng Đạo là một
giáo dục hướng đến nhân vị. Nhân vị là gì ? Từ ấy hoặc có vẻ mới, hoặc gây ra
nhiều tranh cãi. Nhân vị có phải là cái “TA” mà Pascal cho là “khả ố”
không ? Trong ngôn ngữ thông thường khi nói đến một người có tánh cách
rất riêng tư, có phải là ta chê trách người ấy xa lánh người khác không. Như
vậy xây dựng nhân cách con người cho ra hồn, hay con người cho có tư
cách, một nhân vị đầy đủ, có phải là hàm chỉ việc xây dựng ấy đã làm xa
lánh tha nhân. ngụ ý một thứ vị kỷ nào đó, vì người chỉ nghĩ đến mình trước,
hay chỉ nghĩ đến mình mà thôi. Giúp trẻ, trong phong trào Hướng đạo, cho trẻ
trở thành một nhân vị, có phải là một khuyến khích cho sự đề cao mình, nghỉ đến
“ quyền lợi “của mình mà không còn biết gì nữa. Chúng ta biết những nhận định
hay phê phán như vậy quả là vội vả và không dúng.
Ta thử đặt ngược lại vấn đề:
Khi ta nói người nào đó chẳng có chút tư cách, có phải là chúng ta đã phê phán
thiếu sót của người ấy không ? Những vị anh hùng, những bậc thánh có phải là
hạng người có tư cách, hay phẩm cách đang ca ngợi không ? Chẳng có gì cao cả
được xây dựng trên đời nếu không có những con người, nói TÔI, bám vào một
chân lý, tin tưởng vào đó, và hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trái với
Pascal, Thánh Thomas nói: Con người (nhân vị) là cái gì cao cả nhất và hoàn hảo
nhất trong thiên nhiên.
Có mâu thuẫn không giữa hai
quan niệm ấy? Điều đó có nghĩa là con người ở giữa hai cực: Một cực vật
chất thật ra không liên quan gì đến nhân cách đích thực, mà chỉ là cái bóng của
nhân cách, và một cực tinh thần liên quan đến nhân cách đích thực. Chính nơi
cực vật chất, nơi cái bóng của nhân cách mới liên quan câu của Pascal, và từ
nhân vị dùng nơi đó sẽ là sai, cái TA chỉ có thể hiểu như là cá nhân.
Cái Ta đáng ghét hay cá thể vật chất, là thứ ham sống liên quan đến
vật chất ??? Tuy nhiên, cái ích kỷ tệ hại nhất có thể là thứ ích kỷ của tinh
thần, khi nó trở nên bè phái hẹp hòi hay cuồng tín, chỉ muốn có lý với bất cứ
giá nào hay luận cứ nào, kể cả nói gian, nói dối.
Cái gì hình thành con
người?
Người là một toàn thể tự nhiên
có thể xác và có tinh thần, và khi theo luật của xác thịt hay luật tinh thần,
thì tất cả người chứ không chỉ một phần là quy thuận. Con người là một
phức hợp lạ lùng gồm vật chất và một hồn, hồn nầy có khả năng sống và
hành động vượt lên trên vật chất và thời gian. Không thể nghĩ là nhân vị và cá
nhân là hai điều khác nhau. Nơi ta không có một thực tại gọi là cá nhân tôi và
một gọi là nhân vị tôi. Cũng sai lầm khi nghĩ là cái cá tính vật
chất hay cái bóng của nhân cách là điều tự nó nhất định xấu. Đó là điều tốt vì
là điều kiện của cuộc sống của ta, và khi nó tùy thuộc nhân cách, nếu xấu
chăng, là khi trong hành động, ta cho khía cạnh ấy của hữu thể ta ưu vị.
Tại sao con người là một
nhân vị ?
Người phải là một nhân vị, là
do lập hữu của một tinh thần nhập thể, lập hữu của hồn tinh thần từ bên
trong thân thể con người. Nhân cách một con người thâm nhập mỗi tế bào, mỗi yếu
tố tổ chức của thể xác, chừng nào thể xác nầy còn sống. Và nếu có được
điều gọi là nhân cách, là nhờ con người có khả năng biết và yêu, tự biết
mình và yêu mình, và do đó con người ở trong mình, tha thiết với chính mình qua
trí tuệ và tình thương. Chỉ vì tôi là một nhân vị, tôi giữ mình, tôi tự
biết tôi, tôi suy nghĩ về tôi, về những căn nguyên các hành vi tôi, và tôi tự
cư xử.
Nói như các triết gia, nhân cách
là lập hữu của một hữu thể có khả năng suy nghĩ, yêu thương và tự quyết định về
cứu cánh của các hành động mình, và do đó, khác với cây cối hay thú vật, đã
vượt ngưỡng cửa độc lập đúng nghĩa. Đó là điều khiến một số người, thông minh
và tự do, sống như là một toàn thể độc lập, hay độc lập ít hay nhiều, trong
toàn thể rộng lớn hơn của vũ trụ và trước toàn thể siêu việt, là Thượng Đế.
Tánh cách cơ bản của nhân cách,
là độc lập trong sinh tồn, và do đó, chỉ tùy thuộc nơi mình, và nơi Thượng Đế,
trong phạm vi hành động. Những sinh vật khác con người, động vật, thực vật,
những phân tử của thể không sống, bị giam cầm trong tất định chế ngự thế
giới thể xác, đều là những vật, những mảnh, trong thế gian. Con người, trái
lại, vì có được lý trí vượt lên trên những hiện tượng cảm giác để đạt hữu
thể và vượt quá thế giới vật chất, có thể trở lại suy nghĩ về những hành vi ,
phán đoán của mình, có thể thoát khỏi những sự kích thích, ám thị của
nhạy cảm, tìm ra những duyên cớ cao hơn và đưa vào trong đời một chuỗi sự
việc không hẵn là do những gì có trước. Con người, nếu biết muốn, có thể
đóng một vai trò trong đời, con người là một nhân vị.
Từ nhân vị, tiếng
Pháp là personne. Từ nầy là do tiếng latin persona trước tiên có nghĩa là
“mặt nạ”, mặt nạ được những diễn viên bi kịch hay hài kịch cổ xưa dùng.
Vì những mặt nạ ấy tiêu biểu những nhân vật mà diễn viên thủ vai, người quen
gọi những người khác cũng là những personnes, khác nhau không phải nhờ
mặt nạ, mà vì một khuôn mặt riêng biệt, và hành động trên sân khấu của đời, và
cả trong việc cai quản Thiên Hựu; những người có thể yêu Thượng Đế một cách tự
do, và cũng có thể chống lại Thượng Đế một cách tự do.
Theo nghĩa đó, có thể nói
một nhân vị là một vũ trụ có bản chất tinh thần, có tự do ý
chí , và làm thành một toàn thể riêng biệt hay đôc lập. Thiên nhiên, hay chính
quyền không thể động đến vũ trụ ấy nếu không được phép. Ngay cả Thượng Đế, có
hành động từ bên trong con người, cũng hành động một cách đặc biệt, với tất cả
tế nhị, cho thấy Thượng Đế xem con người là thế nào, vì trọng tự do của con
người tuy Thượng Đế vẫn có trong con người; Thượng Đế yêu cầu, Thượng Đế chẳng
bao giờ bắt buộc.
Tóm lại, điều có trong nhân
cách con người không chỉ là, như những thụ tạo khác có hình ảnh chung của
Thượng Đế, nhưng lại còn giống riêng hình ảnh Thượng Đế, vì Thượng Đế là tinh
thần, và nhân vị do đó mà ra khi có như nguyên lý sinh sống, một hồn tinh
thần có khả năng biết và yêu, và nhờ ân sủng được nâng lên tham dự cuộc sống
của Thượng Đế, để biết và yêu Thượng Đế.
-----------------------------------------------------------------------------------------------
CÂU
CHUYỆN NGÀNH TRÁNG – Cung Giũ Nguyên
Nhân vị không phải là
một toàn thể đóng kín
Nhân vị là một toàn thể, một vũ
trụ tinh thần. Vì là duy linh, một vũ trụ như thế không thể đóng kín, thu gọn
nơi mình, mà cởi mở , đòi hỏi những chuyển thông của trí tuệ và tình
thương. Trước tiên là mở cho Thượng Đế. Nhân vị sinh ra cho Thượng Đế
cũng như cho cái hay của chính con người, nhân vị là tương đối đối với tuyệt đối
trong đó con người có viên mãn riêng của mình, yêu cầu đối thoại với
Thượng Đế. Tổ quốc tinh thần của nhân vị là tất cả những của cải có một giá trị
tuyệt đối: Chân, mỹ, thiện, công lý, cái vui của khôn ngoan mà mọi hiểu biết
hướng về, hiến dâng trọn vẹn tình thương hướng về, khi tinh thần đã tự dấn
thân.
Do bản tính hướng thượng, hướng
về trật tự siêu nhiên, đến mức tối cao, cùng với những nhân vị thần linh, mà
con người, như là nhân vị, ao ước vào cộng đồng. Con người cũng hướng về những
nhân vị khác, những con người khác. Vì tôi là một nhân vị, tôi ao ước chuyển
thông với những người khác trong phạm vi trí tuệ và tình thương. Chủ yếu của
nhân vị là hướng về.
Tính cách xã hội của
nhân vị
Cần nhấn mạnh đến một điểm
thường hiểu sai, là chính nhân vị , vì thể giá cũng như vì nhu cầu, xin
trở nên thành viên của một xã hội. Những quần thể thú vật được gọi một cách lạm
dụng danh từ, là xã hội. Chỉ có xã hội con người, xã hội những nhân vị.
Tại sao người lại muốn sống
trong xã hội ? Vì nhu cầu, trước là nhu cầu vật chất. sau là nhu cầu tình
cảm, nhu cầu tinh thần. Người cần đến xã hội trần tục về cuộc đời thế gian, cần
đến xã hội siêu nhiên về sự sống đời đời. Xét về khía cạnh nghèo nàn
thiếu thốn của con bgười, nhân vị cần gia kết vào một đoàn thể chuyển
thông xã hội để có thể sống đầy đủ và phát huy đời sống. Xã hội cung cấp
cho người những điều kiện sinh tồn và những phát triển mà con người cần
đến. Một mình con người không thể đạt đến cảnh sung mãn, con người cần
đến xã hội để thỏa mãn những nhu cầu trọng yếu.
Nói nhu cầu vật chất, không chỉ
nói đến cơm áo, chổ ẩn náu, còn có sự giúp đỡ trong công việc lý trí và đức
hạnh, điều đáp ứng tánh cách đạc biệt của con người. Để đạt đến một trình
độ cao trong hiểu biết cũng như trong đời sống đạo lý, con người cần được
giáo dục và sự giúp đở của người đồng loại.
Ích lợi công cộng
Không thể nói mục đích các xã
hội là cái lợi cá nhân cho tất cả mọi người, hay là xã hội lo tôn trọng cá nhân
mỗi người. Mới nghe nói thì hay, trong thật tế, xã hội cũng bênh vực tự do của
kẽ mạnh ăn hiếp kẽ yếu hay tự do của những hạng bất lương khác. Mục đích xã hội
là tìm cái cho xã hội, cho đoàn thể những người hình thành xã hội. Nhưng
nếu quên điều nói sau, nếu quên xã hội là một tập hợp của những nhân vị, mà xã
hội chỉ là một thực thể trừu tương, thì xã hội ấy lâm vào những sai lầm của
chính sách tập thể chung chung, phục vụ cho tất cả, đại đa số quần chúng, cho
toàn thể quốc dân đồng bào, mà trong thật tế, không phục cho ai, trừ thiểu số
nắm quyền trong tay và có độc quyền nói lên những hứa hẹn tốt đẹp hay không
tưởng, Cứu cánh của xã hội là mưu ích lơiï chung của toàn thể, trong đó
con người thật sự đạt đến mức độc lập phù hợp với tình trạng người văn minh,
bảo đảm cho các nhân vị những bảo đảm kinh tế về lao động và tư hữu, những
quyền chính trị, sự mở mang tinh thần, những quyền căn bản của con người tự do
và bình đẳng như mọi người khác.
Nghịch lý của đời sống
xã hội
Trong tất cả các xã hội, cá
nhân luôn luôn bị nhiều ràng buộc, chấp nhận nhiều bổn phận. Về nguyên thủy,
con người đã là thành viên của những nhóm xã hội khác nhau hơn là được xem như
một cá thể. Chính trong những nhóm, những cộng đồng ấy, tôn giáo, gia đình,
kinh tế, chính trị, mới có nhân cách tinh thần, nghĩa là người có bổn phận đối
với những cộng đồng ấy hơn là có bổn phận đối với bản thân. Phải chịu nhiều bổn
phận, con người chẳng nghe nói đến quyền lợi cá nhân. Nhân phẩm con người
là một chinh phục của tiến hóa xã hội, và đến ngày nay, tại nhiều nước,
việc tranh đấu để đòi quyền con người vẫn là một vấn đề thời sự.
Bổn phận
Tất cả những chức năng trước
kia thuộc trách nhiệm của các nhóm xã hội: Gia đình, nghiệp hội, giai cấp, nay
cá nhân lãnh chịu. Dù cho lập gia đình, chọn một nghề nghiệp, tham gia tích cực
trong đời sống kinh tế hay chính trị, cá nhân phải chịu trách nhiệm. Người hiện
đại như thế chịu những ràng buộc mà người của những xã hội thượng cổ không cần
biết. Như vậy, khi ý thức được về những bổn phận của mình, con người cũng ý
thức được vai trò giá trị của mình như là cá thể.
Sự nới rộng những cộng đồng,
việc khuyến khích phổ quát hóa những giá trị đạo đức, dẫn đến một thứ kết quả
như vậy. Ý thức về thể giá riêng tư là ý thức mình có một giá trị riêng rẽ,
không dính líu với những nhóm xã hội bất luận địa vị người có trong những nhóm
ấy, bất luận tiền của, hay địa vị xã hội, mà chỉ vì mình là con người, một hữu
thể có tư tưởngvà có lý trí.
Nhân phẩm, công nhận như vậy,
trở thành đối tượng của những ràng buộc: Cá nhân có những bổn phận đối với bản
thân.
Bổn phận phải sống
Bổn phận đầu tiên, là bảo vệ tính
mạng, bổn phận phải sống. Có người đặt ngược lại vấn đề để phản bác quyền tự
sát, vì đó là thể hiện tự do tuyệt đối của con người như cá thể. Phần lớn xã
hội không chấp nhận quyền ấy, và có những luật trừng phạt gắt gao những trường
hợp tự sát, với lẽ làm thế là chống lại những truyền thống đã có và bất chấp
những ràng buộc xã hội. Người tự sát đã trốn tránh những nghĩa vị đối với gia
đình, nghề nghiệp, tổ quốc, vân vân… Nhưng tự sát không chỉ vi phạm bổn phận
đối với xã hội, mà còn là sự trốn tránh những nghĩa vụ đối với bản thân. Đời
sống đạo lý bao hàm nguyên lý cơ bản, là ý chí sống còn, sự chấp nhận can đảm
cuộc sống với tất cả gánh nặng và ràng buộc.
Đời sống thể xác và đời
sống tinh thần
Con người không chỉ có bổn phận
sống, Người còn có bổn phận sống cuộc đời thật sự ra người, nghĩa là một mặt,
giải thoát khỏi những cưỡng chế của đời thể xác, mặc khác phải thoả mản những
đòi hỏi của đời sống xã hội.
Khổ hạnh – Những xã hội nguyên
thủy, vì những lý do khác, ý thức về cần thiết chống lại những tất định về thể
xác và những khuynh hướng của tính nhục dục. Đạo lý của họ thường có nét rõ
ràng về khổ hạnh. Những dân trong các xã hội ấy buộc phải kiêng cử, nhịn thèm,
nhiều thứ, nhiều khổ chế, có khi phải cắt thiến. Những lễ truyền thụ các thanh
niên kèm theo nhiều thử thách khó khăn có khi thành những hành hạ tra tấn : cấm
ngủ, nhịn ăn, bị roi gậy đập trên đầu, nhổ lông, rạch thịt, nhổ răng, cắt bì,
lấy mắt, cho kiến độc cắn, xông khói, treo thân hình với những móc cắm trong
thịt, thử thách bằng lửa, v.v. Trong những xã hội sơ khai ấy, những chức
năng tình dục được bao trùm với một thứ thần nhiệm khi thì trở thành một sự thờ
phụng, khi thì xem yếu tính đã là ô uế.
Phần lớn những chủ thuyết đạo
đức, tôn giáo hay triết lý còn giữ một phần nào thái độ nghi kỵ đối với cuộc
sống tự nhiên. Tất cả tôn giáo đều có phải khổ tu của họ. Thiên Chúa Giáo
tuyên bố nên chết về đời thể xác để được cứu rỗi linh hồn. Đạo đã tôn vinh
không những khiết tịnh (chasteté), mà còn khiết trinh (virginité), và đặt độc
trinh ở bậc cao hơn hôn phối. Nhiều nhà triết gia cũng xem thể xác là nhà giam
của tâm hồn, thể xác, vì bản chất, là một chướng ngại cho đời sống đạo lý và
trí tuệ, một nguồn gốc của hư hỏng và sai lầm, và hình như theo họ, khoái lạc
là một tội ác, và đau khổ là điều thiện.
Chủ nghĩa khoái lạc –
Nghịch với thuyết khổ hành, là thuyết chủ trương khoái lạc, và cũng vì phản ứng
thuyết nầy, có người chủ trương phục hồi cuộc sống của thể xác. Ngay từ thời Cổ
đại, có nhà tư tưởng đã xem khoái lạc là thiện hảo tối thượng (souverain
bien), khoái lạc thể xác là căn nguyên và điều kiện của những thứ thiện
khác. Nhưng họ cũng giữ lại những quyền của trí tuệ và dành một chỗ lớn
cho những khoái lạc tinh thần. Vào những thời cận đại, không thiếu những nhà tư
tưởng, trong số có những nhà lảng man, rao giảng việc phục hồi xác thịt
và những đam mê tính dục. Frédéric Nietzsche đã tuyên bố cần thiết có một “
chuyển biến các giá trị”, thay thế những “ đức hạnh của nô lệ” , như là khiết
tịnh, điều độ, những đức hạnh thích hợp cho những “ chủ”. “ Chúng ta ta
hãy khuyên những kẻ mạnh, ba điều nầy đã bị nguyền rủa và vu cáo nhiều nhất cho
đến nay, đó là khoái sản, ao ước chế ngự, ích kỷ”.
Hai thuyết cũng đều sai : Chẳng
có lý do nào để lên án thể xác, để xem đó là một nguyên lý dơ bẩn và hư hỏng,
cũng không thể xem bất cứ khoái lạc nào cũng là đáng nghi ngờ đứng về phương
diện đạo đức.
Về điểm nầy, tư tưởng ngày nay đã không còn đề cao những thành kiến của thuyết
khổ hạnh, và trở về một nhận định lành mạnh gần khôn ngoan thời cổ đại hơn:
Phát triển thể dục; quan tâm, cả về mặt đạo đức, đến những luật vệ sinh, đến
một cuộc sống vật chất thoải mái, đó là những triệu chứng tốt. Thay vì khinh
thị thể xác người phải ý thức phải có bổn phận đối với nó. Không những ngày nay
ta không thể chấp nhận đời sống tinh thần hoàn toàn biệt lập với tình trạng của
thể xác, ta ý thức được là cơ thể lành mạnh là điều kiện có trí tuệ thật trong
sáng, một ý chí vững chắc, một nhạy cảm cân đối. Ta cũng bắt đầu nhận thức rằng
kính trọng thể xác cũng là một trong những yếu tố của tự trọng; quả là quá
biếng nhác, hay bệnh hoạn, mới đi đến kết luận ngụy biện , và làm thành một
nguyên tắc của đời sống, là vì việc tu luyện để trở thành người hoàn
thiện hay thánh thiện, nên chẳng cần tắm rửa gì nữa !
Mặt khác, quả là phi lý khi xem
một chức năng tự nhiên, dù là loại nào, lại có yếu tình không thanh khiết, ta
cũng biết là nơi con người có những bản năng, chính là vì chúng là những bản
năng trước tiên, có tánh cách hung bạo và nếu buông thả , sẽ ngăn cản sự phát
triển những khuynh hướng cấp cao hơn. Nên quan tâm duy nhất sống hoàn toàn tự
do, theo bản năng, theo ham muốn khoái lạc, chỉ đưa lại kết quả nghịch lại, là
con người chỉ gặp thất vọng và chán chường. Thắng mình, chế ngự những bản
năng tầm thường, cũng là một bổn phận, một điều kiện tiến hóa loài người đã áp
đặt để con người vượt lên được thời kỳ động vật của mình. Điều đạo lý đòi hỏi
nơi con người, không phải là loại bỏ bản tính người. Pacal có câu lừng
danh : “ Con người chẳng phải thiên thần, chẳng phải thú vật, khốn khổ là kẻ
nào muốn làm thiên thần, lại làm thú vật”.Điều đạo lý đòi hỏi, là một qui luật
, thường là một qui luật nghiêm khắc, trong đời sống vật lý, đó là điều
kiện để cho đời sống thể xác thay vì làm chướng ngại cho đời sống tinh thần có
thể gia kết trong đời nầy và được nâng cao lên, từ bản chất và vị kỷ, lên đến
cuộc sống đạo lý và nhân bản.
Sống như một nhân vị, là tự
giải thoát, không những khỏi những tất định vật lý, mà cũng khỏi một số khía
cảnh của đời sống xã hội. Thực tế, trong nhiều xã hội ngày nay, nhân vị bị chà
đạp, con người ở nơi bậc thấp nhất của nhân cách, thiếu thốn và đói khổ.
Mặt khác, xã hội, đời sống xã hội không thể tồn tại nếu trong xã hội ấy thiều
tình thương, là một điều chủ yếu là riêng tư, đi từ người đến người, không thể
đi từ một định chế, những quan hệ tốt nhất trong xã hội , lắm khi cũng chưa có,
như công lý, vì công lý đo lường nơi sự vật và không quan tâm gì đến những nhân
vị.
Đặc tánh của nhân vị
Ý niệm về nhân vị, thật ra, là
từ Thiên Chúa Giáo mà có. Hướng dạo của Baden Powell cũng dựa nơi tinh
thần Kitô Giáo. Vì thế nói đến nhân vị, không thể nói về con người như Kitô
Giáo quan niệm. Cần nên lưu ý là khi các triết gia (như Mounier ở Pháp) dựng
lên “thuyết nhân vị hay chủ nghĩa nhân vị” (personnalisme), không nên lầm lẫn
thuyết hay triết lý đó với Kitô Giáo, một tôn giáo có một tổ chức xã hội, mà
chủ thuyết trình bày một cách duy lý làm thành “thần học”, trong khi thuyết
nhân vị chỉ là một triết lý có tinh thần Thiên Chúa Giáo. Thuyết ấy cũng
không phải là thuyết của một người sáng lập (như thuyết của Marx, hay của
Kant, hay của Khổng Tử), mà có thể xem như là một trào lưu tư tưởng có nhiều
nét rất rõ ràng.
Nhân vị là ý thức; đồng thời
nơi ta, do ta và cho ta
Ý thức được về mình, ta tìm nơi
ta những tư tưởng, tình cảm. kỷ niệm, những quyết định tự ý, v.v. Đó là những
sự việc ý thức khác nhau, và cũng khác đối với những sự việc chung quanh
ta. Những sự việc, đối với ta, là những đối tượng, điều đặt ra ngoài, trước mắt
ta. Trái lại, hữu thể của ý thức ta là hữu thể nơi ta, tự tại (en soi ), và cho
ta (pour soi ), không thể thấy, rờ mó được. Ví dụ ý giận thù tôi có đối với một
người láng giềng, mà tôi che dấu, không để tiết lộ ra ngoài, chẳng ai biết
được, chỉ hiện thực đối với tôi, và người kia không thể biết. Người ta có thể
giải phẩu một bộ não, tìm tòi trong những thành phần, chi tiết bộ não, chẳng
bao giờ nhà phẫu thuật tìm ra được dấu vết của một ý tưởng hay một tình cảm.
Nhân vị, khi xuất hiện cho chính mình như là một ý thức, là hữu thể che dấu,
hữu thể bí mật, có mặt nạ (persona). Là bí mật, nhân vị không hiện hữu đối với
người khác, nhân vị chỉ có cho mình, như là ý thức về mình mà thôi.
Nhân vị còn là hữu thể do
ta (par soi). Những ngoại vật trình bày trước mắt ta như những kết tinh trong
nhất thời của sự tất định phổ quát. Ví dụ tảng đá trên con đường núi cho
nó hình dạng hiện nay. Trái lại, như Berdiaeff nói : “Nhân vị không phải là một
đứa con của thế gian nầy; về cơ bản nhân vị là một “ tôi“ thình lình xuất hiện
như một khởi đầu hoàn toàn mới ở một điểm và vào một lúc nhất định của sự biến
chuyển thế gian. Một người sinh ra khi nói “ tôi “, không chỉ là sự tiếp
nối, một sự kéo dài của hữu thể bố mẹ; đó là một nhân vị mới, và tất cả gì
người chịu đựng hay thực hiện được, sẽ xẩy ra như có nguồn gốc, và nâng đỡ trong
đời cái tôi mà nơi đó con người xác định mình.”
Vừa là nơi ta, do ta và cho ta,
nhân vị là một hữu thể riêng biệt đối với sự vật, và phải được kính nể. Dựa vào
trực giác đầu tiên ấy về nhân vị, có người xem thuyết nhân vị chỉ là một thứ cá
nhân chủ nghĩa (individualisme); người ý thức nhân vị sẽ là người lập dị, chống
lại chung quanh, chỉ lo cho mình, chỉ để ý đến mình. Nhận định như thế là
sai : nhân vị không chỉ có thế.
Theo Bergson, những vật thể chủ
yếu là có không gian, gồm những phần không mật thiết với nhau; trái lại ý thức,
là không phải vật chất, thuộc thời gian ; ý thức trường kỳ, ý thức biến
hành ; mọi ý tưởng, mọi tình cảm chỉ có lúc biến đổi trong không gian. Trình
bày như thế, sự đối nghịch giữa thể xác và ý thức đã được đơn giản hóa quá
đáng, vì ý thức vẫn có một chiều không gian, nó có quan hệ với đời, nó nhập
trong thể xác, mà thể xác có chiều thời gian, thể xác biến đổi. Như vậy quả đất
có lịch sử của nó.
Sự thật, khác biệt là nơi nội
tính và ngoại tính. Thể xác đã được ngoại tính trong không gian lẫn thời gian,
nghĩa là không những thành phần làm nên chúng trong hiện tại mà cả trong những
giai đoạn liên tiếp của kỳ gian (durée) của chúng, cũng là ngoại giới đối với
nhau; một vật thể ở mỗi lúc vẫn là như nó có lúc ấy, chẳng có gì trong dĩ vãng
của nó còn lưu lại. Trái lại ý thức là nội giới đối với nó trong thời gian và
không gian; những giai đọan liên tiếp thâm nhập nhau, thành ra dĩ vãng của nó
vẫn còn
trong hiện tại, kết nạp lần hồi
những gì thu thập được với thời gian. Theo Bergson, đó là sự kiện đủ phản đối
chủ thuyết duy vật. Nhờ trí nhớ ta giữ được những dấu vết của dĩ vãng, ta có
thể nhắc lại sự việc đã qua, v.v.
Ý thức riêng tư như vậy có một
cấu trúc thời gian phức tạp gồm ba chiều (quá khứ, hiện tại, tương lai) mà được
linh động bởi cùng một mạch sống. Thật vậy, dĩ vãng ta không rơi vào hư
vô, nhưng nó không thành vật trơ ( inerte ), nó nằm nơi hai chiều, ta đồng thời
có thể từ bỏ nó và nắm lại nó. Ta từ bỏ để đi đến một hiện tại mới, ta nắm lại
để dựa vào nó, để được nó hướng dẫn, vì người ta thường hiểu biết được và hành
động là nhờ kinh nghiệm dĩ vãng của mình mà thôi. Một thứ cấu trúc cơ
động như vậy cũng nằm trên đường tương lai, vì đồng thời, nhờ dĩ vãng ta dựng
lên những dự phóng mà ta đẩy ra trước và ta lấy lại để sống những dự định ấy và
làm nên thứ dĩ vãng khác. Hiện tại hình như là không gì cả, một điểm không kích
thước, nơi đó tương lai trôi đi trong dĩ vãng, nhưng mặt khác hiện tại là tất
cả. Phải chăng chính trong hiện tại mà nhân vị hiện hữu, và mọi sự gặp gỡ, vì
chính trong hiện tại ý thức tiếp xúc với đời và từ hiện tại mà ta làm ra quá
khứ và tương lai ta. Như thế, hiện tại của nhân vị xuất hiện như là một tiếp
giao giữa vĩnh cửu với thời gian. Berdiaeff viết: “Nhân vị là cái bất di trong
điều mãi thay đổi; nhận vị là sự hợp nhất trong đa phức. Nhân vị không tiêu
biểu một tình trạng đọng lại; nhân vị tự minh thị, tự phát triển, tự trở nên
phong phú, nhưng sự phát triển của nhân vị là sự phát triển của một con người
mà thôi; con người, dù sao, vẫn là thường trực, và không ngớt vẫn là mình.”
Nhân vị là
thể-trong-đời..
Theo thuyết hiện sinh, nhân vị
là trong thế gian, một chủ thể chỉ có nhờ quan hệ với khách thể, bất cứ hiểu
biết, hay tình yêu hay ghét thù nào cũng đòi hỏi một đối tượng. Sartre nói:
“Cuối cùng, mọi sự ở ngoài ta, tất cả, kể cả chúng ta; ở ngoài, ngoài đời, giữa
những con người khác. Không phải nơi một chổ ẩn dật nào mà chúng ta tìm ra
chúng ta, mà trên đường cái, trong thành phố, giữa đám đông, như là vật giữa
những vật, người giữa những người.”
Thuyết nhân vị công nhận khía
cạnh ấy của nhân vị. Qua tất cả những quyền năng của mình, nhân vị quan
hệ với bên ngoài; nhân vị là trung tâm của một mạng quan hệ nhờ đó mà nhân vị
kéo dài trong thế gian và lớn lên với tầm vóc thế gian. Khi ta nhìn một
ngôi sao trên bầu trời, không chỉ ta có với ta một hình ảnh, mà cái nhìn của ta
tạo nên một liên lạc giữa sao và ta, và ý thức ta, một cách nào đó, đã ở trên
trời ở mút cùng của cái nhìn, nơi có sao, vì chúng ta không thấy vật nơi ta, mà
ngoài ta. Và khi tư tưởng ta nghĩ đến đời, tư tưởng ta, như Pascal nói “bao
gồm” luôn thế gian.
Ta thử so sánh những sự vật với
những nhân vị. Không chỉ nhân vị, mà những thân hình hiện ra như những gút
tương quan; chúng có vẻ mất tánh cách vật chất dưới con mắt nhà bác học chỉ
thấy chúng như những khối đục và đầy, như những chùm quan hệ giữa những
vi thể rải rác trong không trung và có thể tự phân ra hệ thống tương quan, như
một lít nước phân ra thành giọt, thành phân tử, nguyên tử, điện tử,
photons… nền tảng rắn của những vật như tan biến, hay quy về những điểm nhỏ
không có kích tấc, và chỉ còn là những trung tâm quan hệ. Như vậy mọi khoa học
chỉ là một bảng luật mà mỗi luật ấn định một hình thức tương quan.
Hữu thể của nhân vị, trái với
hữu thể của thế giới vật lý, là một trung tâm tương quan qua đó hữu thể tìm lại
nội tính của mình và cố trở lãi chính mình trong toàn hảo. Nhân vị không
phải cái nầy hay cái kia , mà ao ước hiện hữu một cách
đầy đủ nhất nếu được, tự đặt như thể là một giá trị cứu cánh.
Mỗi nhân vị đắm trong toàn thể,
được toàn thể nâng đỡ, tuy hữu thể của mỗi nhân vị diễn biến trong một bí mật
không chuyển thông được. Một nhân vị là vừa nguyên lý, môi trường và cứu cánh
của tất cả hữu thể và biết và muốn như vậy. Nhân vị không chỉ phát huy khi có
quan hệ với thế gian, mà từ khi sinh, đã bám rễ trong thế gian. Bất cứ con
người nào phải nhập trong một thể xác. Thể xác, theo nghĩa hẹp, là cơ thể thịt
xương trong đó người sống và chuyển động, nhưng theo nghĩa rộng cơ thể của con
người là cả thế giới, vì cơ thể của ta không thể sống , nếu không có đất nâng
đỡ, hay không có bầu không khí có mặt trời sưởi ấm và cho dưỡng khí.
Bản chất thể xác của con người
đã nhiều lần bị chối từ. Theo Platon, con người chỉ là một linh hồn, thể xác
chỉ là một nhà tù trong đó ta bị giam cầm vì một lỗi nguyên thủy. Theo thuyết
hiện sinh vô thần, con người là chẳng gì khác là tự do của nó. Scheler, triết
gia Đức, phân biệt nơi người hai phạm vi đối nghịch : phạm vi sống hay của động
vật, và phạm vi tinh thần hay nhân vị. Nhưng chúng ta phải nên chấp nhận như
một sự hiển nhiên chúng ta đâu phải là những thiên thần, và thay vì loại bỏ thể
xác. phải công nhận ý nghĩa chính xác của nó. Thể xác là một nơi giam
cầm, vuì thể xác, mà ta bị giữ nơi đất và ta chỉ biết ngoại cảnh qua những cơ
quan cảm giác thể xác làm ta lệ thuộc những nhu cầu của nó và chuyển cho ta
tánh cách mong manh của nó. Tinh thần có thể bất diệt , nhưng thể xác tan rã dễ
dàng. Thể xác lại cho một nhân vị cái bề ngoài, và như thế bị nhòm ngó. Con
người nhập thể chỉ bí ẩn một phần và biểu hiện một phần ; cơ thể như là
một cái màn vừa che vừa phát hiện con người, cho phép người chuyển thông, thành
thử cuộc sống con người thấy như một trò chơi dối trá và chân lý lẫn lộn.
Tuy nhiên sự sống và nhân vị nơi ta không phải hai lực khác nhau về bản chất và
tự định. Nhân cách ta không chỉ là một tự do biệt lập hoàn toàn, sinh ra từ hư
vô và chẳng liên hệ với gì hết. Nhân cách ta chính là cuộc sống của ta. Ta
không phải là một